Đô thị hóa làm suy yếu khả năng phục hồi khí hậu
- Yen Nguyen
- Apr 20
- 3 min read
Sả Vằn
17-04-2025
A century-old myrtle tree stands tall and proud in an alley that appears almost deserted. At the end of the alley nestles a small lovely house, besides which tucks a mulberry tree.
The mulberry tree spreads its lust greenery wide across the vast courtyard. At noon, faint rays of sunlight would penetrate through the thick mulberry leaves, painting dots of sunny flowers on the yard, mesmerizing those passing by.Trích “Dream”; Wild Wise Weird [1]

Khi các thành phố tiếp tục mở rộng, các vùng chuyển tiếp giữa khu đô thị và cảnh quan tự nhiên—được gọi là vùng giao thoa rừng-thành thị (wildland-urban interfaces, WUIs)—đang trở thành những không gian quan trọng cho cả thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học [2,3]. Một nghiên cứu gần đây của Huang, Xu và Jia [4] cho thấy quá trình đô thị hóa đang làm suy giảm nghiêm trọng khả năng của các sinh cảnh rừng ở WUIs trong việc hoạt động như nơi trú ẩn nhiệt và hành lang sinh thái.
Dựa trên các bộ dữ liệu toàn cầu có độ phân giải cao, nghiên cứu đánh giá tác động của các hoạt động nhân sinh gia tăng tại WUIs đối với cấu trúc rừng và chức năng điều hòa khí hậu. Kết quả rất đáng chú ý: quá trình đô thị hóa có liên quan đến sự suy giảm đáng kể về diện tích rừng (−12,61%), chỉ số diện tích lá (−0,45 m²/m²) và chiều cao tán cây (−3,74 m). Những thay đổi này dẫn đến sự suy giảm chức năng điều tiết vi khí hậu, với nhiệt độ bề mặt trung bình hàng ngày tại các WUIs cao hơn 0,41°C so với vùng hoang dã lân cận. Các hiện tượng nhiệt độ cực đoan cũng xuất hiện thường xuyên và nghiêm trọng hơn.
Sự suy giảm chất lượng tán rừng làm suy yếu tính kết nối của các sinh cảnh rừng (−9,45%), cản trở sự di chuyển của các loài và giảm khả năng thích ứng của chúng. Hậu quả là mức độ phong phú loài trung bình tại các WUIs thấp hơn 10,01% so với vùng hoang dã xung quanh—cho thấy mất mát đa dạng sinh học tại địa phương do phân mảnh sinh cảnh, áp lực nhiệt gia tăng và các tác động từ con người [4].
Nghiên cứu đưa ra một lập luận thuyết phục về việc tích hợp bảo tồn đa dạng sinh học và thích ứng khí hậu vào quy hoạch đô thị. Các khu rừng ven đô không chỉ là những khoảng xanh thụ động mà là các vùng đệm chủ động chống lại tác động ngày càng leo thang của biến đổi khí hậu. Khi bị suy thoái, khả năng bảo vệ cả cộng đồng sinh thái và cư dân đô thị của chúng cũng bị tổn hại [5].
Sức khỏe của hệ sinh thái rừng—đặc biệt là ở rìa thành phố—là yếu tố nền tảng cho khả năng chống chịu của chính chúng ta. Bảo vệ những hệ sinh thái này không chỉ là một yêu cầu môi trường, mà còn là một đòi hỏi xã hội, thiết yếu cho sự sống bền vững trong một thế giới đang ngày càng đô thị hóa [6,7].
Tài liệu tham khảo
[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/
[2] Schug F, et al. (2023). The global wildland–urban interface. Nature, 621, 94-99. https://www.nature.com/articles/s41586-023-06320-0
[3] Jenerette GD, et al. (2022). An expanded framework for wildland–urban interfaces and their management. Frontiers in Ecology and the Environment, 20, 516-523. https://doi.org/10.1002/fee.2533
[4] Huang A, et al. (2025). Urbanization pressures on climate adaptation capacity of forest habitats. Global Change Biology, 31, e70166. https://doi.org/10.1111/gcb.70166
[5] Bar-Massada A, et al. (2014). Biotic and abiotic effects of human settlements in the wildland–urban interface. BioScience, 64, 429-437. https://doi.org/10.1093/biosci/biu039
[6] Vuong QH. (2018). The (ir)rational consideration of the cost of science in transition economies. Nature Human Behaviour, 2, 5. https://www.nature.com/articles/s41562-017-0281-4
[7] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267




Comments