top of page

Vẽ bản đồ bảo tồn với độ chính xác cao: Góc nhìn mới về dữ liệu quyền sử dụng hạn chế

  • Writer: Yen Nguyen
    Yen Nguyen
  • Apr 16
  • 4 min read

Cuốc Cuốc

08-04-2025

The bird village hastens to deploy the plan. The inspection squad bustles to supervise and collect the data. Morale to reduce emissions and protect the Earth skyrockets. Miss Flowerpecker even proudly shares that she lost 3 grams of weight in one week because of her enthusiastic work. Meanwhile, worms have the greatest chance of enjoying delicious meals without worrying about the intervention of Miss Flowerpecker, destroying hectares of vegetable fields.

Trích “GHG Emissions”; Wild Wise Weird [1]


ree

Thỏa thuận bảo tồn (conservation easements - CEs) đã nổi lên như một chiến lược thiết yếu nhằm bảo tồn đa dạng sinh học trên đất tư nhân, cung cấp giải pháp bảo vệ mà không cần phải thu hồi đất về sở hữu công. Đây là những thỏa thuận pháp lý ràng buộc nhằm hạn chế mục đích sử dụng đất để bảo tồn các giá trị sinh thái hoặc văn hóa, và thường được hỗ trợ thông qua nguồn vốn công hoặc các ưu đãi thuế [2,3]. Khi mức độ áp dụng các CE tăng lên ở cả cấp quốc gia và toàn cầu, nhu cầu theo dõi dữ liệu chính xác và toàn diện cũng trở nên cấp thiết hơn. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây của Dyckman và cộng sự [4] đã chỉ ra nhiều hạn chế đáng kể trong bộ dữ liệu quốc gia chính mà các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đang dựa vào (National Conservation Easement Database - NCED).


Mặc dù NCED hiện là kho dữ liệu công khai duy nhất trên toàn nước Mỹ về các CE, nhưng nó gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng như thiếu nhất quán, thiếu dữ liệu và phụ thuộc vào việc cung cấp thông tin một cách tự nguyện. Để đánh giá mức độ tin cậy của NCED, các tác giả đã so sánh nó với Granular Conservation Easement Dataset (GCED)—một bộ dữ liệu thay thế được xây dựng nghiêm ngặt, tổng hợp từ hơn 2.800 thỏa thuận CE được ghi nhận trong giai đoạn 1997 đến 2008/09 tại 12 hạt thuộc Hoa Kỳ [5,6]. GCED được thu thập trực tiếp từ các văn phòng lưu trữ địa phương, cung cấp độ chính xác không gian cao hơn, khả năng theo dõi sửa đổi chi tiết hơn và phân loại thuộc tính rõ ràng hơn.


So sánh giữa hai nguồn dữ liệu cho thấy nhiều khác biệt đáng kể. NCED thường đánh giá thấp số lượng CE, mô tả sai ranh giới không gian và bỏ sót các siêu dữ liệu thiết yếu như năm thiết lập và diện tích thửa đất. Những thiếu sót này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của các công cụ phân tích không gian phổ biến—như Ripley’s K và Global Moran’s I—khi cho ra kết luận khác nhau tùy thuộc vào bộ dữ liệu sử dụng. Sự không nhất quán này đặt ra những lo ngại nghiêm trọng về tính hợp lệ của các kết luận rút ra từ các phân tích dựa trên NCED, đặc biệt trong bối cảnh lập kế hoạch bảo tồn ở cấp độ địa phương hoặc vùng.


Vượt ra ngoài các giới hạn kỹ thuật, những phát hiện này gợi mở các câu hỏi lớn hơn về cách xã hội nhận thức, đánh giá và quản lý thiên nhiên. Việc mô tả sai kích thước hoặc vị trí của các CE có thể tạo ra ảo tưởng về thành công trong công tác bảo tồn, hoặc che giấu các khoảng trống sinh thái quan trọng. Trên thực tế, những sai lệch như vậy có thể cản trở nỗ lực bảo vệ đa dạng sinh học, làm suy yếu khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và làm giảm trách nhiệm giải trình trước công chúng.


Dyckman và cộng sự [4] chỉ ra một sự đánh đổi cố hữu giữa độ phủ toàn quốc và độ chính xác chi tiết theo địa phương. Trong khi NCED có thể hữu ích trong việc xác định các xu hướng quy mô lớn, thì những nghiên cứu đòi hỏi độ chính xác địa phương cần có thông tin bổ sung hoặc phải xây dựng lại bộ dữ liệu hoàn toàn như GCED. Khi công tác bảo tồn đất tư nhân ngày càng gắn liền với đầu tư công và mục tiêu chính sách, nhu cầu về dữ liệu minh bạch, toàn diện và được chuẩn hóa trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.


Tựu trung, nghiên cứu này nhấn mạnh rằng mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên không chỉ được định hình bởi các chính sách bảo tồn mà còn phụ thuộc sâu sắc vào chất lượng và tính toàn vẹn của dữ liệu hỗ trợ các chính sách đó. Cũng như các hệ sinh thái cần sự cân bằng và kết nối, các hệ thống thông tin phục vụ quản trị thiên nhiên cũng phải phản ánh những nguyên tắc tương tự [7,8].


Tài liệu tham khảo

[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/

[2] Cheever F. (1996). Environmental law: public good and private magic in the law of land trusts and conservation easements: a happy present and a troubled future. Denver University Law Review, 73, 1077-1102. https://ssrn.com/abstract=956595 

[3] McLaughlin NA. (2005). Rethinking the perpetual nature of conservation easements. Harvard Environmental Law Review, 29, 421–521. 

[4] Dyckman CS, et al. (2025). Going with the grain: scalar conservation easement dataset comparison. Landscape Ecology, 40, 77. https://doi.org/10.1007/s10980-025-02085-1 

[5] Self S, et al. (2024) A hypothesis test for detecting spatial patterns in categorical areal data. Spatial Statistics, 61, 100839. https://doi.org/10.1016/j.spasta.2024.100839 

[6] Dyckman CS, et al. (2024) Challenging inherent assumptions: patterns in the tax assessor’s land use designations associated with conservation easement parcels and their implications for biodiversity preservation policies. Conservation Science Practice, 6(6), e13130. https://doi.org/10.1111/csp2.13130 

[7] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267

[8] Vuong QH, Nguyen MH. (2024). Further on informational quanta, interactions, and entropy under the granular view of value formation. https://philpapers.org/rec/VUOARN 


 
 
 

Comments

Rated 0 out of 5 stars.
No ratings yet

Add a rating
bottom of page