top of page

Thích ứng với biến đổi khí hậu ở Bắc Cực: Câu chuyện về công lý, bản sắc văn hóa và sự kiên cường

  • Writer: Yen Nguyen
    Yen Nguyen
  • Apr 26
  • 4 min read

Updated: Apr 27


Bào Ngư

23-04-2025

According to our task force’s calculation, methane emission has declined by 90% through our environmental protection campaign. While eating much less, the chicks in our village still gain weight very well; for example, the Sham-bird family’s children increased their weight by 50% during the campaign! Members of all other families also gain weight, although they ate less and defecated much less! Upon checking their house’s droppings site, only Mr. Sparrow’s family pooped more than the permitted threshold. However, the village decides not to prohibit them from defecating because they seem to try really hard to eat less. The whole family of Mr. and Mrs. Sparrows is now emaciated, with only skin and bones being seen. Even their feathers molt seriously.

Trích “GHG Emissions”; Wild Wise Weird (2024)


ree

Bắc Cực đang ấm lên nhanh gần gấp bốn lần mức trung bình toàn cầu, kéo theo những biến đổi môi trường sâu sắc. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động dễ thấy như băng tan và băng vĩnh cửu (permafrost) rã đông, còn tồn tại một cuộc khủng hoảng phức tạp hơn — nơi mà các cộng đồng bản địa đang đối mặt với những rào cản xã hội, chính trị và kinh tế ăn sâu, cản trở khả năng thích ứng của họ.


Malik và Ford [1] nhấn mạnh rằng những thách thức này không chỉ bắt nguồn từ biến đổi khí hậu, mà còn bị trầm trọng hóa bởi các bất công lịch sử, thất bại trong quản trị và tình trạng bị gạt ra bên lề một cách có hệ thống. Tri thức truyền thống (traditional knowledge) — vốn là nền tảng cho khả năng chống chịu thông qua các hoạt động như săn bắn, chăn thả và chia sẻ cộng đồng — đang bị xói mòn do di dời cưỡng bức, hiện đại hóa và việc bị loại khỏi các tiến trình ra quyết định. Sự suy giảm quần thể tuần lộc ở Canada và mất băng biển ở Greenland là những ví dụ rõ nét về những giới hạn thích ứng không thể đảo ngược, đe dọa sự tồn tại văn hóa và an ninh lương thực của các cộng đồng bản địa.


Bất bình đẳng kinh tế càng làm hạn chế năng lực thích ứng [2]. Nhiều cộng đồng bản địa ngày càng phụ thuộc vào các công nghệ đắt đỏ và hàng hóa nhập khẩu, tạo ra các ngưỡng chi phí khiến việc thích ứng trở nên ngoài tầm với. Tại những khu vực như Chukotka, Nga, tình trạng nghèo đói và thiếu cơ sở hạ tầng đã khiến các nỗ lực tăng cường khả năng chống chịu gần như không thể thực hiện được.


Các áp lực tâm lý xã hội — bắt nguồn từ sự tha hóa văn hóa, các vấn đề sức khỏe tâm thần và nỗi đau sinh thái (ecological grief) — tiếp tục bào mòn khả năng chống chịu của cộng đồng. Việc phải di dời do biến đổi khí hậu làm đứt gãy mối liên kết với tổ tiên, gây ra những tác động tâm lý kéo dài mà không chính sách nào có thể dễ dàng khắc phục [3].


Các hệ thống quản trị phân mảnh và cạnh tranh địa chính trị càng làm trầm trọng thêm vấn đề, khi ưu tiên khai thác tài nguyên hơn là bảo vệ quyền lợi của người bản địa và sự bền vững môi trường [4]. Di sản của chủ nghĩa thực dân đã biến các giới hạn tự nhiên thành những rào cản xã hội-chính trị cố hữu, tước đi của cộng đồng bản địa sự linh hoạt cần thiết để thích ứng với khí hậu thay đổi nhanh chóng.


Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng thích ứng ở Bắc Cực vượt xa phạm vi quản lý môi trường; đó là câu chuyện về công lý, bình đẳng và bảo tồn văn hóa [1]. Để vượt qua những rào cản này, cần có các mô hình quản trị mang tính chuyển đổi, đặt chủ quyền của cộng đồng bản địa làm trung tâm, phục hồi hệ thống tri thức truyền thống, và đảm bảo công bằng xã hội và kinh tế.


Bắc Cực là minh chứng sống động cho mối liên kết mong manh giữa thiên nhiên và xã hội loài người [5,6]. Khi những bất công lịch sử giao thoa với các cuộc khủng hoảng môi trường, cái giá phải trả không chỉ là sự mất mát của các hệ sinh thái mà còn là sự mai một của những nền văn hóa đã gìn giữ chúng qua nhiều thế hệ [7]. Thích ứng thực sự với biến đổi khí hậu đòi hỏi chúng ta phải đối diện trực diện với những thách thức đan xen này.


Tài liệu tham khảo

[1] Malik IH, Ford JD. (2025). Barriers and limits to adaptation in the Arctic. Current Opinion in Environmental Sustainability, 73, 101519. https://doi.org/10.1016/j.cosust.2025.101519

[2] Naylor AW, et al. (2021). Monitoring the dynamic vulnerability of an Arctic subsistence food system to climate change: the case of Ulukhaktok, NT. PLoS ONE, 16, e0258048. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0258048 

[3] Chi G, et al. (2024). Climate impacts on migration in the Arctic North America: existing evidence and research recommendations. Regional Environmental Change, 24, 47. https://doi.org/10.1007/s10113-024-02212-9 

[4] Hanaček K, et al. (2022). On thin ice – the Arctic commodity extraction frontier and environmental conflicts. Ecological Economics, 191, 107247. https://doi.org/10.1016/j.ecolecon.2021.107247 

[5] Vuong QH, Nguyen MH. (2024). Exploring the role of rejection in scholarly knowledge production: Insights from granular interaction thinking and information theory. Learned Publishing, 37, e1636. https://doi.org/10.1002/leap.1636 

[6] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267

[7] Vuong QH, Nguyen MH. (2024). Better Economics for the Earth: A Lesson from Quantum and Information Theories. https://www.amazon.com/dp/B0D98L5K44

 
 
 

Comments

Rated 0 out of 5 stars.
No ratings yet

Add a rating
bottom of page