top of page

Khôi phục rừng: Bài học từ Rừng Đại Tây Dương của Brazil

  • Writer: Yen Nguyen
    Yen Nguyen
  • Apr 16
  • 4 min read

Cành Cạch

08-04-2025

– Was Kingfisher eating Fish, or… when Fish entered Kingfisher’s stomach, would it also mean that Fish was eating Kingfisher?
This unexpected question made it not easy for Kingfisher to confirm that when he was about to swallow Fish, was he letting Fish swallow him instead?
And if there is no answer, perhaps he has to rely on empirical data: swallowing the talking partner!

Trích “Philosophical Chat”; Wild Wise Weird [1]


ree

Nỗ lực phục hồi Rừng Đại Tây Dương của Brazil—một điểm nóng đa dạng sinh học có tầm quan trọng toàn cầu—đang chưa phát huy được toàn bộ tiềm năng sinh thái của mình, theo một nghiên cứu gần đây đăng trên Perspectives in Ecology and Conservation [2]. Mặc dù các sáng kiến phục hồi đã sử dụng phương pháp trồng rừng với đa dạng loài cao, thành phần loài tại các khu vực phục hồi lại không phản ánh được sự phong phú và dị biệt sinh học của các mảnh rừng bản địa lân cận.


Nghiên cứu đã phân tích 1.073 khu trồng rừng phục hồi thuộc ba kiểu rừng chính—rừng mưa nhiệt đới, rừng theo mùa và rừng Araucaria—và so sánh với 268 mảnh rừng còn sót lại (remnant forest patches). Sử dụng chỉ số Jaccard dissimilarity để đánh giá sự đa dạng beta (sự biến thiên trong thành phần loài giữa các địa điểm), các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các khu phục hồi có mức độ tương đồng cao với nhau hơn so với các khu rừng bản địa. Trên thực tế, các khu trồng mới đang tạo ra những cộng đồng thực vật bị đồng nhất hóa với sự chi phối của một số ít loài phổ biến [2].


Sự đồng nhất thực vật học này phần nào bắt nguồn từ các rào cản hậu cần và sự đơn giản hóa sinh thái. Các vườn ươm cây thường ưu tiên phát triển các loài tiên phong tăng trưởng nhanh, phát tán bằng gió—vì dễ trồng và dễ phân phối trên quy mô lớn. Kết quả là, những loài này thường được trồng đại trà trên nhiều vùng sinh thái khác nhau, bất kể sự khác biệt về khí hậu, độ cao và điều kiện đất đai [3,4]. Ngược lại, các loài hiếm, tăng trưởng chậm hoặc phụ thuộc vào sự phát tán qua động vật lại thường bị bỏ sót—mặc dù chính những loài này dễ bị tuyệt chủng cục bộ nhất do phân mảnh sinh cảnh và suy thoái hệ sinh thái [5,6].


Mặc dù việc sử dụng các loài phổ biến có thể giúp nhanh chóng thiết lập cấu trúc rừng và khởi động quá trình tái sinh tự nhiên, mức độ sự đa dạng beta thấp và mức độ kết nối với nhau (nestedness) cao tại các khu phục hồi làm dấy lên lo ngại về hiện tượng đồng nhất hóa sinh học—tức là việc các cảnh quan đa dạng sinh học trở nên bị chi phối bởi một tập hợp nhỏ các loài phân bố rộng [7]. Xu hướng này có nguy cơ làm suy yếu mục tiêu dài hạn của bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là trong việc gìn giữ các loài đặc hữu, quý hiếm và đang bị đe dọa.


Những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết phải tư duy lại chiến lược phục hồi rừng quy mô lớn. Một quá trình phục hồi sinh thái hiệu quả không thể chỉ dừng lại ở việc trồng cây, mà cần bao hàm toàn bộ sự biến thiên sinh thái tại địa phương. Quá trình đó cần ưu tiên đưa vào các loài đặc trưng theo vùng và những loài đang bị đại diện thiếu, đồng thời thúc đẩy các quá trình sinh thái duy trì đa dạng sinh học trên những cảnh quan đã bị phân mảnh. Sau cùng, để hàn gắn mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, các nỗ lực phục hồi phải hướng tới việc tái tạo các khu rừng không chỉ xanh, mà còn giàu sinh thái, có khả năng phục hồi cao và bám rễ sâu vào bối cảnh địa sinh học bản địa của chúng [8,9].


Tài liệu tham khảo

[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/

[2] de Almeida C, et al. (2024). High-diversity Atlantic Forest restoration plantings fail to represent local floras. Perspectives in Ecology and Conservation, 23(1), 6-11. https://doi.org/10.1016/j.pecon.2024.12.001

[3] Brancalion PHS, et al. (2018). Maximizing biodiversity conservation and carbon stocking in restored tropical forests Conservation Letters, 11(4), e12454. https://doi.org/10.1111/conl.12454 

[4] Holl KD, et al. (2017). Local tropical forest restoration strategies affect tree recruitment more strongly than does landscape forest cover. Journal of Applied Ecology, 54(4), 1091-1099. https://doi.org/10.1111/1365-2664.12814 

[5] Engert JE, et al. (2020). Functional trait representation differs between restoration plantings and mature tropical rainforest. Forest Ecology and Management, 473, 118304. https://doi.org/10.1016/j.foreco.2020.118304 

[6] de Lima RA, et al. (2020). The erosion of biodiversity and biomass in the Atlantic Forest biodiversity hotspot. Nature Communications, 11(1), 6347. https://www.nature.com/articles/s41467-020-20217-w 

[7] Olden JD, Rooney TP. (2006). On defining and quantifying biotic homogenization. Global Ecology and  Biogeography, 15(2), 113-120. https://doi.org/10.1111/j.1466-822X.2006.00214.x 

[8] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267

[9] Vuong QH, Nguyen MH. (2024). Further on informational quanta, interactions, and entropy under the granular view of value formation. https://philpapers.org/rec/VUOARN 


 
 
 

Comments

Rated 0 out of 5 stars.
No ratings yet

Add a rating
bottom of page