Hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu: Đầu tư công sinh lời từ niềm tin và khả năng phục hồi
- Yen Nguyen
- Apr 25
- 3 min read
Gà Lôi Nước
21-04-2025
Kingfisher has been living in his own dug cave by the pond but now decides that he needs a new mansion. He takes a tour around the village to see how the other birds build their houses.Trích “Mansion”; Wild Wise Weird [1]

Khi rủi ro khí hậu ngày càng gia tăng – đặc biệt tại các vùng ven biển thấp như quận Miami-Dade – chính quyền và cộng đồng đang ngày càng đầu tư vào hệ thống hạ tầng thích ứng (adaptation infrastructure) nhằm giảm thiểu tác động của mực nước biển dâng, lũ lụt và sóng triều [2–4]. Một nghiên cứu mới của Kelly và Molina [5] đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm đáng tin cậy về lợi ích kinh tế từ những nỗ lực này, tập trung vào cách các công trình hạ tầng ảnh hưởng đến giá trị bất động sản lân cận.
Dựa trên bộ dữ liệu gồm hơn 400.000 giao dịch bất động sản và 162 dự án thích ứng được hoàn thành từ năm 2000 đến 2019, nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương pháp chênh lệch trong chênh lệch (difference-in-differences methodology) để đánh giá sự thay đổi trong giá nhà đất. Kết quả rất đáng chú ý: các bất động sản gần các công trình hoàn thành – đặc biệt là những hạ tầng dễ nhận thấy như đường nâng cao hoặc tường chắn biển (seawalls) – ghi nhận mức tăng giá rõ rệt. Trung bình, giá giao dịch tăng 5% chỉ trong năm đầu tiên sau khi dự án hoàn tất, và tăng gần 10% sau năm năm, cho thấy thị trường ghi nhận và đánh giá cao năng lực chống chịu [5].
Những mức tăng giá này còn đại diện cho lợi ích kinh tế ròng đáng kể. Sau khi trừ chi phí đầu tư, mỗi dự án thích ứng mang lại trung bình khoảng 680.000 USD lợi nhuận ròng, với tổng giá trị lợi ích ròng ước tính gần 300 triệu USD trên toàn bộ các dự án được nghiên cứu. Phần lớn các can thiệp đạt ngưỡng lợi ích–chi phí (benefit-cost threshold), cho thấy đầu tư công đang được ưu tiên cho những khu vực đem lại hiệu quả kinh tế và khả năng bảo vệ cao nhất.
Ngoài các chỉ số tài chính, nghiên cứu này cũng thách thức định kiến rằng triển khai hạ tầng công thường kém hiệu quả. Dù có những lo ngại về thất bại phối hợp hoặc chi phí gia tăng [6], phân tích cho thấy các nỗ lực thích ứng tại Miami-Dade được triển khai có chiến lược và có căn cứ kinh tế rõ ràng. Kết quả này phản ánh năng lực của xã hội trong việc điều phối nhu cầu môi trường với phản ứng thị trường và chính sách công.
Quan trọng hơn, phát hiện này nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa con người và hệ tự nhiên (human and natural systems) [7]. Khi hạ tầng thích ứng thể hiện rõ khả năng bảo vệ trước các rủi ro khí hậu, nó không chỉ đảm bảo an toàn không gian vật lý mà còn củng cố ổn định kinh tế và niềm tin cộng đồng. Tuy nhiên, lợi ích này cũng có giới hạn: phần lớn các dự án hiện nay chỉ thiết kế cho các kịch bản mực nước biển trong ngắn hạn, và sẽ cần đầu tư liên tục để theo kịp tốc độ biến đổi khí hậu ngày càng tăng [8].
Tài liệu tham khảo
[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/
[2] EPA. (2017). Multi-model framework for quantitative sectoral impacts analysis: A technical report for the Fourth National Climate Assessment. Environmental Protection Agency.
[3] McAlpine SA, Jeremy RP. (2018). Estimating recent local impacts of sea-level rise on current real-estate losses: A housing market case study in Miami-Dade, Florida. Population Research and Policy Review, 37, 871-95. https://doi.org/10.1007/s11113-018-9473-5
[4] Hino M, Marshall B. (2021). The effect of information about climate risk on property values. PNAS, 118, e2003374118. https://www.pnas.org/doi/10.1073/pnas.2003374118
[5] Kelly DL, Molina R. (2023). Adaptation infrastructure and its effects on property values in the face of climate risk. Journal of the Association of Environmental and Resource Economists, 10, 1405-1438. https://doi.org/10.1086/725109
[6] Duranton G, et al. (2021). Transportation infrastructure in the US. In EL Glaeser, JM Poterba. (Eds). Economic Analysis and Infrastructure Investment (pp. 165-218). University of Chicago Press.
[7] Vuong QH, Nguyen MH. (2024). Exploring the role of rejection in scholarly knowledge production: Insights from granular interaction thinking and information theory. Learned Publishing, 37, e1636. https://doi.org/10.1002/leap.1636
[8] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267




Comments