Các biện pháp tiết kiệm dựa trên hành vi thúc đẩy khát vọng năng lượng mặt trời ở các khu định cư tị nạn Uganda
- Yen Nguyen
- Apr 20
- 4 min read
Diệc Xám
16-04-2025
There must be a plan of action because delaying will be dangerous. Kingfisher is unsure if he is too worried, but every time he counts the fish in the pond, the number of fish seems to decrease. The hot and stressful weather also makes his feathers molt and grow slower. The situation seems life-threatening!Trích “GHG Emissions”; Wild Wise Weird [1]

Năng lượng sạch và đáng tin cậy là nền tảng cho cả phát triển con người lẫn hành động khí hậu. Tuy nhiên, hơn 600 triệu người ở khu vực Hạ Sahara châu Phi vẫn chưa được tiếp cận với điện—trong đó, 97% người tị nạn không có điện lưới. Thay vào đó, họ phải phụ thuộc vào các nguồn năng lượng ô nhiễm và kém hiệu quả như củi, than và dầu hỏa—những thứ không chỉ góp phần vào phát thải khí nhà kính mà còn gây ra nạn phá rừng và ô nhiễm không khí trong hộ gia đình [2–4]. Dù công nghệ năng lượng mặt trời đã được chứng nhận là một giải pháp bền vững, việc tiếp cận và sử dụng vẫn còn hạn chế do các rào cản tài chính, thiếu thông tin và thiếu lòng tin [5].
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát gần đây do Elven và cộng sự [6] thực hiện đã đánh giá liệu các can thiệp mang tính hành vi có thể thúc đẩy nhu cầu sử dụng năng lượng mặt trời trong cộng đồng người tị nạn ở Uganda hay không. Nghiên cứu được tiến hành với 312 nhóm Tiết kiệm và Tín dụng Làng (Village Savings and Loan Associations – VSLAs), một cơ chế tài chính phổ biến trong các cộng đồng tị nạn. Nhóm được can thiệp nhận được một buổi truyền thông lồng ghép vào cuộc họp VSLA định kỳ, bao gồm: (1) thông tin về lợi ích kinh tế và năng suất của sản phẩm năng lượng mặt trời được chứng nhận, (2) hướng dẫn xác định thiết bị chất lượng cao, và (3) hoạt động thiết lập mục tiêu tiết kiệm đi kèm cam kết công khai với các thành viên khác.
Can thiệp này mang lại kết quả đáng kể. Những người tham gia nhóm can thiệp có xác suất đặt mục tiêu tiết kiệm cho năng lượng mặt trời cao hơn 32 điểm phần trăm và có xác suất tiết kiệm đều đặn cao hơn 13 điểm phần trăm so với nhóm đối chứng. Đóng góp hàng tuần cho mục tiêu năng lượng mặt trời tăng 136%. Ngoài ra, họ cũng chủ động hơn trong việc tiếp cận các nhà cung cấp năng lượng mặt trời được chứng nhận. Mặc dù tỷ lệ sở hữu thiết bị chưa tăng trong thời gian nghiên cứu—do cần thời gian để tích lũy đủ tiền tiết kiệm—những thay đổi hành vi này là bước đệm quan trọng dẫn đến việc tiếp cận.
Phân tích trung gian cho thấy việc cải thiện kiến thức không phải là yếu tố duy nhất tạo nên hiệu quả. Thay vào đó, sự hỗ trợ xã hội từ các nhóm VSLA và sự gia tăng khát vọng đóng vai trò thiết yếu. Người tham gia cảm thấy tin tưởng hơn vào các công ty năng lượng mặt trời, nhận được sự ủng hộ từ bạn bè, và bắt đầu coi việc sở hữu thiết bị năng lượng mặt trời là một mục tiêu khả thi.
Nghiên cứu này cho thấy các can thiệp hành vi dựa vào cộng đồng có thể bổ trợ hiệu quả cho các giải pháp cấu trúc trong quá trình chuyển đổi năng lượng sạch. Những nhóm tiết kiệm phi chính thức, thông qua việc thúc đẩy học hỏi tập thể, động lực chung và trách nhiệm lẫn nhau, trở thành nền tảng quan trọng để trao quyền cho các cộng đồng yếu thế. Khi khát vọng tập thể gặp gỡ tiềm năng tái tạo của thiên nhiên, năng lực hành động của con người trở thành động lực cho sự chuyển đổi bền vững [7,8].
Tài liệu tham khảo
[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/
[2] Tuyiragize R, Bassi F. (2023). Assessment of household energy utilization patterns in Uganda: a latent class analysis. Journal of Tropical Futures: Sustainable Business, Governance & Development, 1, 56-82. https://doi.org/10.1177/27538931231182231
[3] Bond TC, et al. (2013). Bounding the role of black carbon in the climate system: a scientific assessment. Journal of Geophysical Research Atmospheres, 118, 5380-5552. https://doi.org/10.1002/jgrd.50171
[4] Arnold JEM, et al. (2006). livelihoods, and policy interventions: changing perspectives. World Development, 34, 596-611. https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2005.08.008
[5] Radley B, Lehmann-Grube P. (2022). Off-grid solar expansion and economic development in the global south: A critical review and research agenda. Energy Research & Social Science, 89, 102673. https://doi.org/10.1016/j.erss.2022.102673
[6] Elven S, et al. (2025). Behavioral savings sessions increase the pursuit of solar products among refugees in Uganda. npj Climate Action, 4, 32. https://www.nature.com/articles/s44168-025-00212-x
[7] Vuong QH. (2018). The (ir)rational consideration of the cost of science in transition economies. Nature Human Behaviour, 2, 5. https://www.nature.com/articles/s41562-017-0281-4
[8] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267




Comments