"Bất bình đẳng trong nắng nóng: Sự nóng lên đô thị diễn ra nhanh hơn ở các quốc gia có thu nhập thấp hơn
- Yen Nguyen
- Apr 20
- 4 min read
Gà Đông Tảo
16-04-2025
There must be a plan of action because delaying will be dangerous. Kingfisher is unsure if he is too worried, but every time he counts the fish in the pond, the number of fish seems to decrease. The hot and stressful weather also makes his feathers molt and grow slower. The situation seems life-threatening!Trích “GHG Emissions”; Wild Wise Weird [1]

Khi các thành phố trên toàn cầu tiếp tục mở rộng, cường độ của hiện tượng nóng lên đô thị cũng gia tăng theo—và điều này ảnh hưởng nặng nề nhất đến những cộng đồng ít khả năng thích ứng. Một nghiên cứu toàn cầu phân tích hơn 4,8 triệu lưới đô thị từ năm 2003 đến 2018 cho thấy cường độ hiệu ứng đảo nhiệt bề mặt (surface urban heat island intensity - SUHII)—tức khoảng chênh lệch nhiệt độ giữa khu vực đô thị và nông thôn—đã tăng trung bình 0,021 °C mỗi năm. Tuy nhiên, mức độ nóng lên này lại gia tăng nhanh nhất tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thấp [2].
Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị (urban heat island - UHI) xuất phát từ hạ tầng dày đặc, thiếu thảm thực vật, và lượng nhiệt do con người tạo ra [3,4]. Dù các quốc gia có thu nhập cao như Hoa Kỳ và Trung Quốc ghi nhận diện tích rộng bị ảnh hưởng bởi SUHII gia tăng, mức độ gia tăng ròng lại lớn nhất ở các quốc gia nghèo hơn. Ban ngày, SUHII gia tăng nhanh nhất tại các quốc gia thu nhập thấp, trong khi ban đêm lại tăng mạnh nhất tại các nước thu nhập trung bình thấp. Mô hình này cho thấy đô thị hóa nhanh nhưng thiếu quy hoạch và hạ tầng cơ bản đang làm trầm trọng thêm tính dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu [2].
Các yếu tố mùa vụ và địa lý cũng góp phần khuếch đại rủi ro. Vào mùa hè, sự gia tăng nhiệt độ ban ngày đặc biệt nghiêm trọng ở các vùng nhiệt đới và khô hạn, nơi bề mặt bị bê tông hóa hấp thụ bức xạ mặt trời và cây xanh rất khan hiếm. Ban đêm, các vật liệu xây dựng đô thị giải phóng nhiệt chậm, cộng với mức ô nhiễm không khí cao khiến các hạt bụi lơ lửng giữ lại nhiệt lượng—làm nhiệt độ ban đêm càng tăng. Trong khi đó, các thành phố giàu có thường có thể kiểm soát UHI nhờ quy hoạch đô thị thông minh và hạ tầng xanh. Ví dụ, Dublin đã hạn chế được hiện tượng nóng lên nhờ quy hoạch hiệu quả và nhiều công viên cây xanh, còn thành phố Brazzaville—nơi mật độ cây xanh giảm một nửa trong hai thập kỷ qua—phải đối mặt với mức độ phơi nhiễm ngày càng cao [5,6].
Những phát hiện này phản ánh một thách thức công lý môi trường lớn hơn. Các xu hướng SUHII cho thấy sự bất bình đẳng trong khả năng tiếp cận hạ tầng bền vững và công cụ quy hoạch đô thị có thể làm sâu sắc thêm các khoảng cách xã hội và sinh thái. Việc giải quyết UHI đòi hỏi đầu tư khẩn cấp vào các chiến lược làm mát cho các khu vực dễ bị tổn thương, đồng thời cần sự hỗ trợ lâu dài từ các quốc gia thu nhập cao.
Có một vòng lặp phản hồi phức tạp giữa phát triển con người và biến đổi môi trường [7,8]. Khi đô thị hóa định hình khí hậu địa phương, những môi trường đã bị thay đổi này lại trở thành yếu tố then chốt ảnh hưởng đến chất lượng—và cả khả năng sống còn—của cuộc sống đô thị. Để định hình tương lai, cần tích hợp công bằng, phát triển bền vững và khả năng chống chịu trong quy hoạch đô thị.
Tài liệu tham khảo
[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/
[2] Yuan Y, et al. (2025). Surface urban heat island effects intensify more rapidly in lower income countries. npj Urban Sustainability, 5, 11. https://www.nature.com/articles/s42949-025-00198-9
[3] Liu Z, et al. (2022). Surface warming in global cities is substantially more rapid than in rural background areas. Communications Earth & Environment, 3, 219. https://www.nature.com/articles/s43247-022-00539-x
[4] Oke TR. (1982). The energetic basis of the urban heat island. Quarterly Journal of the Royal Meteorological Society, 108, 1-24. https://doi.org/10.1002/qj.49710845502
[5] Murphy C, et al. (2023). The emergence of a climate change signal in long-term Irish meteorological observations. Weather and Climate Extremes, 42, 100608. https://doi.org/10.1016/j.wace.2023.100608
[6] Emvoulou IJ, et al. (2024). Analysis of the impact of urban sprawl on vegetation cover in Central African cities: case of Brazzaville, Republic of Congo. Journal of Infrastructure, Policy and Development, 8, 9812. https://doi.org/10.24294/jipd9812
[7] Vuong QH. (2018). The (ir)rational consideration of the cost of science in transition economies. Nature Human Behaviour, 2, 5. https://www.nature.com/articles/s41562-017-0281-4
[8] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267




Comments