Biển cả và con người: Định nghĩa lại bảo tồn biển thông qua nghiên cứu về yếu tố con người
- Yen Nguyen
- Apr 12
- 4 min read
Cu Rốc
02-04-2025
Kingfisher: “But, what did I do...”
Shaman Bird: “You once contributed to this karma by falsely reporting methane emissions from the Bird Village’s droppings. Now, these vengeful spirits have come to seek justice.”
Pointing at the white plant in Kingfisher’s cave, Shaman Bird added: “That is the Coral Skeleton. Got it now?Trích “Ghosts”; Wild Wise Weird [1]

Một bài đánh giá gần đây của Dacks, Yadav và Mawyer [2] nhấn mạnh tiềm năng to lớn của việc tích hợp các yếu tố con người vào công tác bảo tồn biển để thúc đẩy công bằng, bình đẳng và bền vững trên khắp các vùng ven biển và gần bờ rộng lớn của châu Đại Dương.
Dựa trên một đánh giá có hệ thống về 684 nghiên cứu được công bố từ năm 2016 đến 2022, các tác giả làm nổi bật sự xuất hiện của một lĩnh vực liên ngành năng động – khoa học xã hội biển (marine social science) – lĩnh vực này tái định hình các môi trường ven biển không chỉ đơn thuần là các hệ sinh thái mà còn là những hệ thống gắn liền sâu sắc với các bối cảnh xã hội, văn hóa và chính trị.
Trong khi phần lớn các nghiên cứu (65%) tập trung ở một vài địa điểm chính – cụ thể là Úc, Aotearoa New Zealand (New Zealand), Hawai‘i và Fiji – bài đánh giá cho thấy các mô hình chủ đề rộng hơn: vai trò trung tâm của hệ thống tri thức bản địa, các yếu tố phức tạp và đa sắc thái chi phối hành vi của con người, sự phức tạp của mối quan hệ giữa con người và đại dương, và sự nhấn mạnh ngày càng tăng vào công bằng và công lý xã hội. Đáng chú ý, hơn một nửa số nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp hỗn hợp, kết hợp các công cụ định tính và định lượng để nắm bắt tốt hơn sự phức tạp của các tương tác giữa con người và môi trường.
Một số nghiên cứu đã thách thức các giả định phổ biến. Ví dụ, trái ngược với xu hướng toàn cầu, nghèo đói không phải là một yếu tố dự đoán đáng tin cậy cho hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp ở Papua New Guinea [3]. Hơn nữa, các tập quán văn hóa và nghi lễ thường đóng vai trò quyết định trong việc định hình việc sử dụng tài nguyên biển – đôi khi còn quan trọng hơn các yếu tố kinh tế [4].
Bài đánh giá cũng làm sáng tỏ các khía cạnh cảm giác và cảm xúc chưa được khám phá đầy đủ của công tác bảo tồn, chẳng hạn như hành động thu hoạch bào ngư mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng người Hoa ở Tây Úc, vốn chứa đựng ký ức, bản sắc và sự thuộc về [5]. Việc tích hợp hệ thống tri thức bản địa và thế giới quan dựa trên mối quan hệ tương hỗ nổi lên như một con đường đặc biệt hứa hẹn trong công tác bảo tồn biển.
Ở Aotearoa New Zealand, các nguyên tắc của người Māori như kaitiakitanga (các giá trị và thực hành về quản lý hoặc giám hộ) đã hướng dẫn những thay đổi công nghệ sáng tạo trong nghề đánh bắt tôm scampi, hài hòa hiệu suất sinh thái với các giá trị văn hóa. Các phương pháp có sự tham gia tương tự cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc trao quyền cho cộng đồng địa phương và tăng cường quản trị, thúc đẩy các chiến lược bảo tồn toàn diện hơn và phù hợp hơn về mặt văn hóa [2].
Tuy nhiên, các tác giả cảnh báo về những hạn chế của các khuôn khổ quá đơn giản hóa.
Việc phân loại các yếu tố con người thành các kiểu hình cứng nhắc có thể che khuất các thực tế giao thoa định hình trải nghiệm sống. Nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh sự phức tạp của các mối liên hệ giữa giới tính, tầng lớp và quyền của người bản địa, nhấn mạnh rằng công tác bảo tồn hiệu quả phải bắt nguồn từ bối cảnh địa phương và chú ý đến các động lực xã hội đa dạng.
Bài đánh giá khẳng định rằng việc giải quyết các vấn đề bảo tồn biển đòi hỏi nhiều hơn là kiến thức chuyên môn về sinh thái hoặc kỹ thuật – nó đòi hỏi sự tham gia sâu sắc vào cách con người sống, cảm nhận, quản lý và liên hệ với biển cả. Như các cộng đồng trên khắp châu Đại Dương từ lâu đã nhận ra, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên không phải là một ranh giới chia cắt mà là một mối liên kết sống động và có tính tương hỗ [6]. Việc thừa nhận và tôn vinh sự kết nối lẫn nhau này là điều cần thiết để tạo ra các giải pháp công bằng, kiên cường và bền vững cho đại dương chung của chúng ta.
Tài liệu tham khảo
[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/
[2] Dacks R, et al. (2025). Emerging human dimensions research in coastal and nearshore Oceania. Conservation Biology, 39(2), e14455. https://doi.org/10.1111/cobi.14455
[3] Busilacchi S, et al. (2018). Drivers of illegal livelihoods in remote transboundary regions: The case of the Trans-Fly region of Papua New Guinea. Ecology and Society, 23, 46. https://doi.org/10.5751/ES-09817-230146
[4] Vave R. (2022). Five culturally protected water body practices in Fiji: Current status and contemporary displacement challenges. Ambio, 51, 1001-1013. https://doi.org/10.1007/s13280-021-01620-z
[5] Chen L, Ryan J. (2018). Abalone in diasporic Chinese culture: The transformation of biocultural traditions through engagement with the Western Australian environment. Heritage, 1(1), 122-141. https://doi.org/10.3390/heritage1010009
[6] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267




Comments